GIA ĐÌNH VẠN HẠNH : HIẾN MÁU CỨU NGƯỜI GIÚP MÌNH

HIẾN MÁU CỨU NGƯỜI, GIÚP MÌNH

(Viết theo tài liệu Y Tế Cộng Đồng và tài liệu Hiến Máu của BS. Nguyễn Ý Đức)

BẠCH LIÊN


Máu là một mô lỏng, lưu hành trong tỉnh mạch và động mạch khắp cơ thể và là một phương tiện chuyển chở nhiều chất khác nhau giữa mô và các cơ quan. Máu chứa nhiều loại tế bào máu lơ lững trong một môi trường lỏng gọi là huyết tương. Máu mang chất dinh dưỡng để nuôi cơ thể và lấy đi chất cặn bã có hại. Không có máu, cơ thể sẽ ngưng hoạt động. Trong cơ thể người nam trưởng thành có khoảng 6 lít máu, cơ thể người nữ có ít hơn, khoảng 4.5 lít. Máu là dung dịch của sự sống, chuyên chở dưỡng khí từ phổi tới các tế bào, và thán khí từ tế bào tới phổi để thải ra ngoài. Máu là một dung dịch cần thiết cho sự tăng trưởng của cơ thể, vì máu chuyên chở các chất dinh dưỡng từ sự tiêu hóa và các hormone do các tuyến nội tiết sản xuất. Máu là dung dịch của sức khỏe, chuyên chở các chất phòng chống bệnh tới các tế bào, và các chất phế thải tới thận để loại ra ngoài cơ thể. Máu cũng giúp điều hòa thân nhiệt, chứa những chất ngăn cản sự xuất huyết từ miệng các vết thương, cân bằng dung dịch chất lỏng trong các tế bào.

Trong máu có những tế bào sống gồm hồng huyết cầu, bạch huyết cầu và tiểu cầu. Hồng huyết cầu và bạch huyết cầu có nhiệm vụ nuôi dưỡng và làm sạch cơ thể. Tiểu cầu giúp máu ở trạng thái đặc. Thiếu tiểu cầu, con người sẽ mất máu và dẫn đến cái chết. Vì là tế bào sống, các tế bào máu cũng cần được nuôi dưỡng bởi sinh tố, khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác.

Máu có 55% huyết tương, một chất lỏng trong màu vàng rơm. Nhìn với mắt thường, máu của mọi người màu sắc trông giống nhau. Nhưng nhìn dưới kính hiển vi, máu có nhiều khác biệt ở hồng cầu.

HIỂU BIẾT VỀ CÁC LOẠI MÁU:

Khoa học gia người Mỹ gốc Áo tên Karl Landsteiner (1868-1934) đã tìm thấy hai loại hóa chất riêng rẽ trên mặt hồng cầu và ông đặt tên là chất A và chất B. Nhờ khám phá nầy, ông được tặng giải Nobel y học vào năm 1930. Nếu hồng huyết cầu chỉ có phân tử A, máu đó sẽ thuộc loại máu A. Nếu chỉ có phân tử B thì máu đó thuộc loại máu B. Nếu trong máu có cả hai phân tử A và B thì máu đó thuộc loại AB. Nếu trong máu không có hai phân tử A và B thì thuộc loại máu O. Khi hai loại máu (máu loại A và máu loại B) trộn lẫn với nhau, các hồng huyết cầu có thể kết chùm lại và gây ra hậu quả chết người. Do đó:

–      Người có máu loại A chỉ có thể truyền máu cho người có máu loại A hoặc AB.

–      Người có máu loại B chỉ có thể truyền máu cho người có máu loại B hoặc AB.

–      Người có máu loại AB chỉ có thể truyền máu cho người có máu AB mà thôi.

–      Người có máu loại O có thể truyền máu cho bất cứ ai.

Cũng vậy:

–      Người có máu loại A chỉ có thể nhận máu loại A hoặc O.

–      Người có máu loại B chỉ có thể nhận máu loại B hoặc O.

–      Người có máu loại AB có thể nhận máu của bất cứ ai.

–      Người có máu loại O chỉ có thể nhận máu từ người có máu loại O mà thôi.

Ngoài ra, trong máu của một số người còn mang một chất đạm khác nữa gọi là yếu tố Rhesus (Rh). Người trong máu có yếu tố nầy thì được gọi là Rh+, nếu không có sẽ là Rh-. Yếu tố Rh liên hệ với loại máu. Vì thế nếu người mang máu loại A có yếu tố Rh sẽ được ghi là A+, nếu không có yếu tố Rh sẽ được ghi là A-. Khi máu Rh+ trộn lẫn với máu Rh- sẽ đưa tới hậu quả xấu và có hại, đặc biết là ở phụ nữ đang mang thai.

Trước đây, người có máu loại O- được xem như có thể cho người mang bất cứ loại máu nào mà không sợ bị phản ứng. Nhưng ngày nay, các khoa học gia có hiểu biết sâu rộng hơn về các phản ứng liên quan tới sự bất tương hợp (incompatibility) giữa các loại máu. Ngay trong máu loại O- cũng vẫn có thể chứa những kháng thể có khả năng gây ra những phản ứng trầm trọng. Vì thế trước khi truyền máu, người cho và người nhận đều được thử máu để xem loại máu của hai người có thích hợp với nhau  hay không (crossmatching).

NGƯỜI CHO MÁU CẦN ĐIỀU KIỆN GÌ?

Không có điều kiện lớn lao gì, ngoài vài đòi hỏi tối thiểu như phải trên 17 tuổi, nặng ít nhất 55 kg, được khám bệnh tổng quát, có sức khỏe tốt và trả lời thỏa đáng các câu hỏi về bệnh sử và nếp sống. Trước khi đi hiến máu nên ăn uống đầy đủ và uống nhiều nước, nhưng không được uống bia, rượu. Các bệnh thường thấy như cao huyết áp hoặc người đang uống thuốc hạ huyết áp đều có thể hiến máu được.

LIỆU TÔI CÓ ĐỦ MÁU ĐỂ CHO, VÀ NÊN CHO BAO NHIÊU LẦN MỖI NĂM?

Trong cơ thể mỗi người trưởng thành có từ 4.5 lít đến 6 lít máu, mà mỗi lần chỉ cho chưa đến nữa lít. Huyết tương sẽ được phục hồi sau vài ngày, do đó có thể cho huyết tương 2 lần một tuần, mỗi lần cách nhau vài ngày. Hồng huyết cầu được đền bồi trong vài tuần lễ. Với toàn khối máu, có thể cho mỗi 8 tuần lễ.

Hiến máu hiện nay rất an toàn. Kim chích đều dùng kim mới, đã được khử trùng, chỉ dùng một lần rồi bỏ, cho nên không sợ rủi ro nhiễm vi khuẩn gây bệnh do máu chuyên chở như HIV, viêm gan mãn tính với virus B hay C, (virus viêm gan cấp tính A và E ít khi truyền qua máu).

MÁU ĐƯỢC LẤY NHƯ THẾ NÀO?

Ngồi hoặc nằm trên ghế dựa êm ái, cánh tay đặt trên chỗ tựa tay. Một vòng cao su như máy đo huyết áp được cột trên cánh tay để giúp máu dồn nhiều vào tỉnh mạch. Da trên chỗ kim chích được lau cồn khử trùng. Một chiếc kim được cắm vào tỉnh mạch. Máu từ đó sẽ được hút vào một bịch chứa.

Sau khi lấy khoảng 0.5 lít máu, kim được rút ra. Chỗ kim chích được dám một miếng băng keo để ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập. Máu sau đó, sẽ đưa vào phòng thí nghiệm để kiểm tra an toàn trước khi được phân tách ra từng thành phần như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và huyết tương, rồi cất giữ trong tủ lạnh, dùng dần cho nhu cầu.

Sau khi cho máu, nên ngồi nghỉ chừng mươi phút để coi có khó chịu gì không, ăn một chút thức ăn nhẹ, uống một ly nước, rồi thoải mái ra về.

Trong 24 giờ sau khi hiến máu, nên:

–      Uống nhiều nước.

–      Tránh nâng vật nặng bên tay mới cho máu.

–      Tránh vận động mạnh.

–      Không nên uống thuốc giảm đau như Aspirin hoặc Ibuprofen.

Sau khi cho máu, có thể hơi khó chịu bao tử hoặc hơi chóng mặt. Các dấu hiệu nầy chỉ thoảng qua, và mất đi sau khi ăn uống. Nêu báo cho nơi hiến máu hoặc bác sĩ nếu:

–      Tiếp tục buồn nôn, chóng mặt, dù đã ăn uống và nằm nghỉ.

–      Nơi cắm kim bị sưng, chảy máu hoặc đau.

–      Cảm thấy tê nơi chỗ kim chích, đau lan xuống bàn tay, ngón tay.

–      Bị bệnh với các triệu chứng như nóng sốt, đau cuống họng sau khi cho máu khoảng 4 ngày, vì có thể bị bệnh nhiễm vi khuẩn. Cần cho nơi lấy máu biết là mình bị bệnh, để họ không sử dụng máu của mình vừa cho, bảo đảm an toàn cho người nhận máu.

NHỮNG AI KHÔNG ĐƯỢC HIẾN MÁU:

Người hiến máu có thể bị từ chối nếu:

–      Đã từng sử dụng các loại ma túy, nghiện ngập. Những người nầy có tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS khá cao, 23%.

–      Người đồng tính luyến ái. Từ năm 1977 là lúc mà bệnh AIDS được khám phá nơi một số người đồng tính luyến ái. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS ở người đồng tính luyến ái trong thời gian 1996-1997 là 38%. Lây lan virus viêm gan B và C cũng rất cao ở lớp người nầy.

–      Thử nghiệm dương tính với HIV.

–      Những người mại dâm, vì có thể bị lây nhiễm HIV.

–      Bị viêm gan B.

–      Đang uống thuốc Tegison để chữa bệnh vẩy nến (Psoriasis).

–      Có bệnh hay chảy máu (Hemophilia), vì thiếu các yếu tố làm đông máu.

NHẬN MÁU:

Có hiến máu thì có nhận máu. Vậy khi nào cần nhận máu?

–      Khi bị mất quá nhiều máu do thương tích hay tai nạn, hoặc bị ra máu trong lục phủ ngũ tạng.

–      Bị mất máu trong hoặc sau khi giải phẩu.

–      Khi đang được điều trị ung thư bạch cầu và các loại ung thư khác. Hóa trị và xạ trị ung thư thường ảnh hưởng đến tuỷ sống, làm giảm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và đưa đến chảy máu.

–      Thiếu hồng cầu do các bệnh kinh niên.

–      Khi mắc chứng bệnh chảy máu (Bleeding disorder) vì thiếu các yếu tố đông máu.

Khi nhận máu cũng có thể gặp rủi ro:

–      Bị phản ứng khi nhận phải loại máu không cùng loại với máu của mình.

–      Nhận máu có mang mầm sinh vật gây bịnh.

–      Bị phản ứng tan huyết truyền máu. Khi kháng thể trong huyết tương người nhận và hồng cầu của người cho xung khắc, huỷ hoại các hồng cầu nầy. Đó là phản ứng tan huyết do truyền máu. Khi đó người nhận sẽ bị thiếu máu.

–      Bị dị ứng vì người nhận quá mẫn cảm với các chất gây dị ứng có trong máu của người cho. Phản ứng thường xảy ra một thời gian ngắn sau khi được truyền máu, nhưng không nguy hiểm lắm.

Nói chung, máu đã được sàn lọc kỹ càng để loại bỏ mầm bệnh truyền nhiễm, các yếu tố gây bệnh, và được kiểm tra thích hợp trước khi sử dụng để truyền cho bệnh nhân, nên sự nhận máu để cấp cứu và trị bệnh đều tương đối an toàn.

Nhận máu có thể là máu của chính mình hoặc của người khác hiến. Ta có thể lấy máu của mình, gởi ở ngân hàng máu (thường là trước thời gian chuẩn bị giải phẩu), rồi khi cần, máu đó sẽ được dùng để tiếp máu cho mình. Thông thường, lấy một đơn vị máu mỗi tuần lễ trong 6 tuần lễ, lần cuối khoảng 72 giờ (3 ngày) trước khi được giải phẩu, để cơ thể có đủ thì giờ phục hồi máu.

HIẾN MÁU:

Mỗi ngày, có hảng triệu người ở khắp nơi trên thế giới cần được tiếp máu để cứu chữa trong các trường hợp bị chấn thương do tai nạn, trong giải phẩu cũng như trong thời gian điều trị ung thư. Tiếp hồng huyết cầu, bạch cầu, tiểu cầu hoặc huyết tương là điều kiện thiết yếu để mang sức khỏe trở lại cho người bệnh. Một người, khi bị tai nạn xe hơi, có thể cần từ 4-40 đơn vị máu. Mổ tim hở cần từ 2-6 đơn vị hồng cầu, 2-4 đơn vị huyết tương, 1-10 đơn vị tiểu cầu. Trị ung thư bạch cầu cần 2-6 đơn vị hồng cầu, 6-8 đơn vị tiểu cầu mỗi ngày trong 2-4 tuần lễ.

Nhu cầu máu trên thế giới ngày một gia tăng mà số người hiến máu lại giảm. Các bạn trẻ chưa có thói quen hiến máu. Một số người cao tuổi không còn có thể cho máu được nữa, nhưng lại cần tiếp máu nhiều hơn. Quy luật lấy máu nghiêm ngặt hơn để bảo đảm an toàn cho người bệnh. Thêm vào đó, khi đang có bệnh, khi đang uống thuốc chữa bệnh, khi làm đẹp với xăm da, đeo khuyên, khi vừa du lịch đến một vài vùng đang có dịch bệnh… đều có thể không được phép hiến máu. Tại Hoa Kỳ, hơn một nữa dân số có đủ điều kiện để hiến máu, mà chỉ có 5% trong số những người nầy đi cho máu.

Vì thiếu máu an toàn là vấn đề toàn cầu, nên vào tháng 5 năm 2005, Bộ Trưởng Y Tế của các quốc gia trên thế giới đã đồng thanh quyết định chọn ngày 14 tháng 6 hàng năm làm ngày “World Blood Day”. Đây là ngày để nhắc nhở mọi người về nhu cầu máu an toàn, để cảm ơn và vinh danh những người tự nguyện hiến máu, cũng như để khích lệ mọi người tình nguyện hiến máu. Những người nầy họ thường có sức khỏe tốt, không che dấu về tình trạng sức khỏe của mình, không bị các bệnh truyền nhiểm, không chích các loại thuốc cấm hay dùng ma tuý, và họ hiến máu rất đều đặn.

Bệnh nhân cần tiếp máu hầu hết không bao giờ nhận máu toàn khối, mà chỉ nhận từng thành phần riêng rẽ, như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu hoặc huyết tương. Vì thế sau khi lấy máu, các thành phần nầy sẽ được phân tách ra.

–      Hồng cầu chiếm từ 40-50% tổng số khối lượng của máu, có thể cất giữ trong tủ lạnh được 42 ngày. Nếu không được sử dụng trong vòng 6 tuần lễ, hồng cầu sẽ được hủy bỏ. Hồng cầu nếu giữ đông lạnh trong nhiệt độ thích hợp, sẽ còn tốt trong 10 năm.

–      Tiểu cầu có rất ít trong máu, chỉ từ 150,000-450,000/ml máu, và được dùng để kiểm soát sự băng huyết. Tiểu cầu cần được cất giữ ở nhiệt độ bình thường trong phòng. Sau 5 ngày nếu không được sử dụng, tiểu cầu sẽ bị loại bỏ vì có thể bị nhiểm vi khuẩn.

–      Huyết tương có thể giữ trong trạng thái đông lạnh khoảng 1 năm và được truyền trực tiếp cho người bệnh có nhu cầu, nhưng đa số được dùng trong chế biến dược phẩm.

–      Máu toàn khối thường được dùng cho trẻ sơ sinh hay bệnh nhân phải giải phẩu lớn như mổ tim hở.

Hồng cầu cần dùng cho người bị thiếu máu, chấn thương, giải phẩu.

Tiểu cầu được dùng để tiếp cho bệnh nhân ung thư đang được hóa trị.

Huyết tương để dùng cho các trường hợp bị phỏng nặng.

KẾT LUẬN:

Mỗi khi nghe tiếng còi xe cứu thương (Ambulance) xé không gian trên đường phố hoặc nhìn thấy một người đang bị tai nạn, máu chảy xối xả, chúng ta có tự hỏi: rồi số phận của họ sẽ ra sao? Liệu họ có cần phải được tiếp máu hay không? Liệu bệnh viện có dự trữ đủ lượng máu cho nhu cầu? Ta có sẳn lòng hiến máu để cứu họ hay chưa???…

Có khi chính bản thân ta, con cái hay người thân của ta một lúc nào đó cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự, và cũng cần đến một bịch máu hồng hồng, nho nhỏ, nhưng nó có thể cứu sống được một mạng người.

Hiến máu là một việc làm rất giản dị và chẳng đau đớn gì. Chỉ lim dim nằm nghỉ thoải mái khoảng 20 phút mơ màng, tưởng nghĩ tới những giọt máu của mình có thể cứu sống được một mạng người là cảm thấy vui và hạnh phúc trong lòng. Hạnh phúc qua một hành động nhân đạo chân chính.

Trong thời gian gần đây, nền Y học đã có những tiến bộ vượt bậc, đã sản xuất được đủ loại thuốc để chữa bệnh, đã làm được tim, được thận nhân tạo, nhưng cho đến nay, y học vẫn chưa chế tạo được máu nhân tạo. Nhằm mục đích gây ý thức trách nhiệm và tập cho mọi người có thói quen đi hiến máu, tại Úc Đại Lợi, vào khoảng trung tuần của tháng Ba hàng năm có tuần lễ Quốc Gia Hiến Máu (National Blood Donor Week). Trong tuần lễ nầy, chính phủ vận động, khuyến khích toàn dân đi hiến máu. Để có đủ máu cho nhu cầu chữa bệnh và dùng cho các trường hợp cấp cứu, mỗi tuần các bệnh viện tại Úc cần đến 26,000 người hiến máu.

Theo sách Kỷ lục Guinness, trước đây ông Robert Hall, dân New Zealand, là người đã hiến máu nhiều nhất (177 lần). Kỷ lục nầy năm vừa qua đã bị ông Phil Baird, 76 tuổi, cư ngụ tại Cessnock, tiểu bang New South Wales, Úc Đại Lợi qua mặt với 231 lần hiến máu trong 56 năm. Tính ra, cứ 12 tuần ông đi hiến máu một lần, mỗi lần 459 ml. Ông Baird phát biểu: “Người ta cho tôi biết là tôi đã hiến tổng cộng 103,96 lít máu, gấp 21 lần lượng máu trong cơ thể của tôi. Kỷ lục thế giới nầy làm tôi rất hãnh diện. Tôi không phải là anh hùng hay một thứ gì đại loại như thế. Chỉ có điều rất tốt nếu có thêm nhiều người đi hiến máu, bởi lượng máu cần dùng trong cấp cứu luôn luôn rất thiếu và các nạn nhân đang rất cần có máu để chữa bệnh”.

Thế nhưng những ghi nhận đó chưa phải là chính xác. Một cư dân vùng Kew, tiểu bang Victoria, Úc Đại Lợi, Bác sĩ chuyên khoa huyết học Peter Schiff, người vừa được tưởng thưởng huy chương OAM, đã phá mọi kỷ lục với trên 560 lần hiến máu. Bác sĩ Peter bắt đầu đi hiến máu từ năm 1953, khi đang còn là một sinh viên y khoa, cứ mỗi hai tuần, ông đi hiến máu một lần. Đến nay đã 71 tuổi, Bác sĩ Peter vẫn còn tiếp tục đi hiến máu.

Hiện nay người viết được biết tại Quốc Nội cũng như ở Hải Ngoại, nhiều Gia Đình Phật Tử đã ghi vào đề án công tác xã hội hàng năm của đơn vị mình: Ngày toàn Gia Đình đi hiến máu.

Chúng ta suy nghĩ gì về những điều vừa đọc trên đây, và đã sẳn lòng để thực hiện cho bản thân mình, cũng như vận động Gia Đình riêng, Gia Đình chung của mình cùng đi hiến máu hay chưa???

Muốn hiến máu, ở Úc Đại Lợi, liên lạc: Australian Red Cross, Phone: 13 14 95.

http:// www.donateblood.com.au or Blood Donation Guidelines

Ở các nơi khác, nên liên lạc với Văn phòng Y Tế của Hội Đồng Thành Phố tại địa phương, để biết thêm chi tiết liên quan đến việc hiến máu.

digg delicious stumbleupon technorati Google live facebook Sphinn Mixx newsvine reddit yahoomyweb